[-][mục lục][-]
Nhớ Em
Quách Tấn
"Trường Xuyên thi thoại, Những bài thơ kỷ niệm"
Nhà xuất bản Văn Nghệ, TP HCM, Việt Nam, 2000



Nha Trang, tiết Xuân phân năm Nhâm Tý (1972)

Hải, Lạc thân mến,

Bài thơ in trên thiệp Xuân với hoạ phẩm của Vĩnh Ấn do Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam tại Paris thực hiện nhân dịp Tết Nhâm Tý, là bài NHỚ EM trích trong Mộng Ngân Sơn:

Thiêm thiếp lòng mong đợi
Vùng nghe chim tích linh
Vội vàng xô gối dậy
Đầy thềm hoa tử kinh

Đây là một bài thơ tức sự, một bài thơ ngẫu đắc. Bài thơ ra đời thời kháng chiến chống thực dân, lúc tôi tản cư ở Phú Phong, Bình Định. Tôi nhờ là mùa hè năm Quý Tỵ (1953), mùa hoa tử kinh nở thạnh.

Lúc bấy giờ đường giao thông bị cắt đứt. Đã hàng năm mà tôi không gặp bào đệ Kiến Đạo. Nỗi nhớ thương mong đợi, mãi canh cánh bên lòng.

Một hôm trời vừa tảng sáng đương nằm nghỉ, tự nhiên nghe tiếng chim khách reo rồi lại reo. Lòng mừng khấp khởi, tôi vụt đứng dậy chạy ra thềm … Nhưng đợi suốt ngày không thấy, không thấy người, không thấy tin … Nhìn hoa tử kinh nở đầy song, tôi ghi lại chút lòng chờ mong thương nhớ.

Đó là tâm sự chớ không phải văn chương.

Thời Hậu Chiến, hồi cư về Nha Trang, gặp Phạm Công Thiện, tôi đưa bài thơ NHỚ EM cùng một số ngũ tuyệt khác của tôi cho xem. Năm 1964, Phạm Quân ở Nam Đô gởi cho tôi một bức thư chép lại bài NHỚ EM với niềm chiếu cố: "Mấy năm trôi qua, bài thơ trên vẫn làm tôi bỡ ngỡ, kinh ngạc và cảm thấy lạ lùng đi vào thế giới tinh khôi mà tôi đã đánh mất giữa hố thẳm và sương mù".

Tôi mừng cho bài thơ không đến nỗi vô mệnh, vì đã có tri âm.

Trên đời được có một tri âm cũng đã khỏi bị sống bơ vơ. Hạnh phúc thay! Bài NHỚ EM lại có người bạn thứ hai nữa. Đó là Thi Vũ ở Paris. Chính Thi Vũ đã chọn bài NHỚ EM cho in vào thiệp chúc xuân Nhâm Tý. Thi Vũ cho biết: "Bài này thiền lắm. Hơi thơ rất tịnh ở hai câu đầu, hai câu sau gấp và hùng. Nói ra sự bật nhảy huy hoàng của một Saton. Sự ngạc nhiên hồn hậu mà cũng là sự kiến tính phiêu vơi. Chọn xong, em đã tự tay sắp chữ, chọn màu, và in cùng bức họa Vĩnh Ấn làm thiệp xuân cho Trung Tâm Văn Hóa …" (thư ngày 04/02/1972). Thi Vũ cho biết thêm: "Em có gởi bài thơ trong thiệp cho Phạm Duy, đề nghị Phạm Duy phổ nhạc. Em nói đây vừa là một bài thơ Thiền, vừa là một bài thơ Tình, và là Tình của Đông Phương. Nó có uy lực trả lời và khai thị cho bài ADIEU của Apollinaire, mà Phạm Duy phổ nhạc qua bài MÙA THU CHẾT … Anh thử đọc lại xem:

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-t'en que je t'attends

(Adieu, Apolinaire)

Bùi Giáng dịch làm mấy bản:

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ra sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó.

Hoặc:

Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như tơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai vê cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước hương thì ngủ yên.

Thơ Apollinaire quá tuyệt. Nhưng buồn ray rứt, đứt ruột. Có nỗi chết chập chờn. Thảm sầu ai oán.

Nhưng không có cái trùng trùng nơi thinh không. Không có cái hơi hám cận kề, đeo đẳng, trung thành và nhập một của NHỚ EM:

Thiêm thiếp lòng mong đợi
Vùng nghe chim tích linh
Vội vàng xô gối dậy
Đầy thềm hoa tử kinh

"Ngọt. Thơm. Tinh khiết. Bâng khuâng. Nhẹ như một nụ cười thầm kín, mà chỉ có hoa biết tới trong cơn bình minh." (thư ngày 04/02/1972)

Bài NHỚ EM, bào đệ Kiến Đạo chưa được đọc. Bởi sau ngày thơ ra đời không bao lâu thì:

Nước chia đôi nhà cũng chia đôi
Anh Nam em Bắc bạn phương trời
Chờ trong mộng luống chìm theo mộng
Thương nhớ lời không dám rỉ lời
Mòn mỏi niên quang hoa lá rụng
Bẽ bàng tâm sự nước mây trôi
Những đêm ánh sáp ngời trang sử
Sùi sụt dòng thu sóng biển khơi.

Kiến Đạo tuy chưa được đọc, song Phạm Công Thiện đã đọc, Thi Vũ đã đọc với tấm lòng thương yêu thơ, thương yêu người.

Như thế văn chương không đến nỗi vô mệnh mà người cũng không đến nỗi cô đơn.

Mới đây, ông bạn già Trần Thúc Lâm, sau khi đọc xong bài thơ trong thiệp xuân, đến nửa khen nửa đùa:

Chỉ có 4 câu 5 chữ mà dùng đến 2 điển: Tích Linh và Tử Kinh. Không trách Linh Mục Thích bảo anh mắc bệnh hay chữ khi phê bình Mùa Cổ Điển (1) và Vũ Ngọc Phan chê anh là cầu kỳ khi phê bình Đêm Thu Nghe Quạ Kêu (2).

Tôi giật mình: tích linh là tên chữ của chim khách; tử kinh là giống cây có hoa từng chùm màu hồng, người mình thường trồng trước sân, bên thềm, ở thôn quê Bình Định (3) không nơi nào không có. Những cảnh vật đem vào thơ là những cảnh vật trước mắt. Khi làm thơ tôi không hề nghĩ đến điển, mà lâu nay cũng không bao giờ nghĩ đến điển. Trần Quân nhắc mới nhớ.

Tích linh: Kinh Thi có câu "Tích linh tại ngung, Huynh đệ cấp nạn", ý nói anh em thương yêu giúp đỡ nhau như chim tích linh cùng bay cùng kêu nơi gò đống.
Tử kinh: Điền Chân có ba anh em chung sống với nhau vui vẻ. Bỗng đổi lòng, bèn chia của để ra ở riêng. Của chia xong, còn một cây tử kinh ở trước sân, anh em toan đốn xuống chia ba. Chưa kịp ra tay thì cây thoạt héo. Chân trông thấy than cùng hai em:

Cây vốn cùng một gốc, nghe nói phân chước mà tiều tụy! Người thật không bằng cây!

Nói rồi sụt sùi. Hai em cảm động, bỏ việc đi ở riêng. Tử kinh liền xanh tươi trở lại.

Người xưa thường dùng hai điển này để nói về tình anh em.

Hải, Lạc thân mến,

Đối với bài NHỚ EM, không có ý làm thơ mà nên thơ, không cố tâm dụng điển mà có điển, điển chẳng những hợp với tình mà còn hợp với cảnh, thơ chẳng những chứa vị thơ mà còn ngấm vị đạo.

Thật là chuyện bất ngờ!

Tôi chợt nhớ đến những câu ca trù Vịnh Thủy Tiên của Phan Sào Nam tiên sinh:

… Vô tình mới thật hữu tình
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên
Cách Bồng Lai Phương Trượng bấy nhiêu niên
Mừng tái kiến lại não nùng duyên nợ cũ …

Lòng tự nhiên sanh bồi hồi ảo não!

Thôi, chào Hải, Lạc.



(Những bức thư thơ) tk
(1) Báo Vì Chúa 1941. (2) Nhà Văn Hiện Đại (3) Ở Khánh Hòa cũng có nhiều.




Copyleft 2004. nhóm huê diệp chi™®, "Bách Thảo Trong Thi Ca".